Nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự

Chứng minh trong tố tụng dân sự đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Thông qua hoạt động chứng minh, Tòa án xác định được chứng cứ nào là có thật, giúp cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn, khách quan.

Quy định về nghĩa vụ chứng minh hay nói cách khác, ai là chủ thể có nghĩa vụ phải chứng minh được quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS):“1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp…

2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó”.


Luật gia Hà Văn Dương - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài (24/7): 1900 6198
Luật gia Hà Văn Dương - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài (24/7): 1900 6198

Theo quy định này thì đương sự là chủ thể có nghĩa vụ phải chứng minh. Hoạt động xét xử các vụ án dân sự là hoạt động phát sinh trên cơ sở có sự tranh chấp trong quan hệ pháp luật nội dung giữa các bên có lợi ích tư đối lập nhau nhưng bình đẳng về địa vị pháp lý mà trong đó có một quy tắc chung cho cả hai bên đương sự: “Người nào đề ra một luận điểm cần cóchứng cứ thì phải chứng minh”. Theo quy tắc này, mỗi bên đương sự có nghĩa vụ phải chứng minh những sự kiện, tình tiết mà mình đã viện dẫn làm cơ sở cho những yêu cầu và phản đối của mình, hay nói một cách giản đơn là khẳng định một sự việc gì thì phải chứng minh sự việc ấy. Quy định này xuất phát từ cơ sở khi yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi cho mình với tư cách là người trực tiếp tham gia vào các quan hệ pháp luật nội dung có vi phạm hay tranh chấp, đương sự là người hiểu rõ nhất vì sao họ có yêu cầu đó, họ biết được những tình tiết, sự kiện trong vụ việc, do đó có khả năng cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, về mặt tâm lý, khi đưa ra yêu cầu của mình bao giờ đương sự cũng là người đứng ở thế chủ động, tự nguyện đưa ra những lý lẽ để chứng minh, bênh vực cho quyền lợi của mình.


Khi đưa ra yêu cầu thì nguyên đơn phải chứng minh cho yêu cầu của mình đối với bị đơn, tức là phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tham gia nghiên cứu chứng cứ, tham gia hỏi, tranh luận... để chứng minh, bởi vì bị đơn được suy đoán là không có bất cứ trách nhiệm gì với nguyên đơn cho đến khi trách nhiệm của bị đơn chưa được chứng minh. Bên cạnh đó, trong tiến trình phát triển của hoạt động chứng minh, quyền và nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể chứng minh không bất biến mà trong điều kiện nhất định, nó có thể di chuyển từ một bên đương sự này sang một bên đương sự khác; từ nguyên đơn sang bị đơn khi bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, hoặc khi bị đơn muốn viện dẫn những sự kiện, tình tiết nhằm bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn.


Các trường hợp không phải chứng minh được quy định khoản 1 Điều 91 BLTTDS 2015: “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây:

a) Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;

b) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.

Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;

c) Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh”.


Tòa án chỉ có trách nhiệm chứng minh chứ không có nghĩa vụ chứng minh. Tòa án là chủ thể có nhiệm vụ giải quyết vụ, việc dân sự. Để giải quyết đúng vụ, việc dân sự thì Toà án vẫn phải xác định xem trong vụ, việc dân sự phải chứng minh, làm rõ là những sự kiện, tình tiết nào. Các chứng cứ, tài liệu của đương sự và những người tố tụng cung cấp có đủ để giải quyết vụ, việc dân sự chưa.Khi thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Tòa án phải yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ. Tòa án có thể tiến hành thu thập chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án theo quy định của BLTTDS để thực hiện trách nhiệm ban hành phán quyết nhân danh Nhà nước. Việc thu thập chứng cứ của Tòa án không phải là nghĩa vụ mà chỉ mang tính hỗ trợ cho việc thu thập chứng cứ của đương sự làm căn cứ để giải quyết vụ, việc dân sự và phục vụ cho việc làm rõ cơ sở quyết định của Tòa án. Tòa án thực hiện việc đánh giá, công bố công khai chứng cứ trước khi sử dụng. Đây chính là điểm khác biệt giữa chứng minh trong tố tụng dân sự với chứng minh trong tố tụng hình sự, bởi trong tố tụng hình sự, nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, người bị buộc không có nghĩa vụ phải chứng minh mình không thực hiện hành vi phạm tội, ngược lại, chứng minh là quyền của người buộc tội, họ có thể cung cấp chứng cứ để chứng minh mình không phạm tội nếu muốn kết thúc vụ án nhanh hơn.


Kiến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại, mà chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu khoa học, hoặc phổ biến kiến thức pháp luật;
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi đây có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật:1900 6198, Email:info@everest.net.vn.