Tính chất đền bù của các hợp đồng dân sự được hiểu như thế nào?

Tính chất đền bù lợi ích được coi là một trong những đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật Dân sự. Tính chất đền bù đó được thể hiện một cách rõ nét nhất trong chế định hợp đồng Dân sự.


Dựa vào tính chất đền bù mà hợp đồng Dân sự được chia làm ba nhóm

1) Nhóm các quan hợp đồng luôn không đền bù;2) Nhóm các hợp đồng có đền bù hoặc không đền bù;3) Nhóm các hợp đồng luôn đền bù. Việc xếp mỗi hợp đồng thuộc nhóm nào dựa trên các quy phạm định nghĩa được quy định trong Bộ luật Dân sự.

Nhóm thứ nhất – Các hợp đồng luôn không đền bù, bao gồm hợp đồng tặng cho tài sản và hợp đồng mượn tài sản. Điều 457Bộ luật Dân sựnăm 2015 quy định “ Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển sở hữu cho bên được tặng mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận”. Qua định nghĩa ta có thể nhận thấy hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng hoàn toàn vì lợi ích của bên được tặng cho. Bên được tặng cho chỉ tiếp nhận tài sản mà không phải thực hiện nghĩa vụ nào mang lại lợi ích vật chất cho bên kia. Nếu một hợp đồng nào đó mang tên “hợp đồng tặng cho tài sản” mà trong đó các bên thỏa thuận với nhau rằng “ Bên A tặng cho bên B chiếc đồng hồ với điều kiện bên bên B phải tặng lại cho bên A chiếc xe đạp” thì hợp đồng đó phải được coi là hợp đồng trao đổi chứ không phải là hợp đồng tặng cho. Cũng xuất phát từ tính chất không đền bù này mà pháp luật của một quốc gia quy định rằng đối bên được tặng cho thì không yêu cầu phải có năng lực hành vi Dân sự đầy đủ ( bởi lẽ bên được tặng cho chỉ tiếp nhận lợi ích mà thôi ).

Có một loại hợp đồng tặng cho đặc biệt – đó là hợp đồng tặng cho có điều kiện . Khoản 1 ĐIều 462 Bộ Luật Dân Sự năm 2015 quy định “ Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho.” Có thể khẳng định rằng hợp đồng tặng cho có điều kiện cũng mang tính chất không đền bù. Điều kiện trong hợp đồng tặng cho có điều kiện phải là những công việc không mang lại lợi ích ( cả vật chất lẫn tinh thần) cho bên tặng cho. Ví dụ : A tặng cho B một con bò với điều kiện rằng trước khi nhận B phải sử lại chuồng bò của mình cho chắc chắn, C tặng cho D một chiếc xe máy với điều kiện sau đó D không được bán xe máy ấy đi…Nếu điều kiện đó mang lợi ích cho các bên tặng cho thì hợp đồng sẻ không được coi là hợp đồng tặng cho nữa. Ví dụ: A tặng cho B chiếc xe đạp với điều kiện B phải quyét vôi lại nhà cho A ( Hợp đồng này được coi là hợp đồng dịch vụ có trả công dịch vụ bằng hiện vật chứ không phải là hợp đồng tặng cho tài sản và khi phát sinh tranh chấp sẻ áp dụng các quy định đối với hợp đồng dịch vụ để giải quyết ).

Đối với hợp đồng mượn tài sản thì Điều 494Bộ luật Dân sựnăm 2015 quy định: “ Hợp đồng mượn tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, còn bên mượn phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn trả đạt được”. Tính chất không đền bù của hợp đồng mượn tài sản thể hiện hiện ở chổ không phải trả tiền cho việc sử dụng tài sản đó. Nếu một hợp đồng mặc dù có tên gọi là “ Hợp đồng mượn tài sản” nhưng trong đó các bên lại thỏa thuận về khoản tiền mà bên mượn phải trả cho việc sử dụng tài sản ( Ví dụ: A cho B mượn xe máy và B phải trả 200 ngàn đồng / 1 tháng cho việc sử dụng xe máy đó) thì hợp đồng đó phải được coi là hợp đồng thuê tài sản và khi phát sinh tranh chấp cần phải áp dụng pháp luật về hợp đồng thuê tải sản và khi phát sinh tranh chấp cần phải áp dụng các quy định pháp luật về hợp đồng thuê tài sản để giải quyết.

Nhóm thứ hai – Các hợp có thể hiện đền bù hoặc không đền bù. Đó là: hợp đồng vay tài sản, hợp đồng ủy quyền và hợp đồng gửi giữ tài sản.

Đối với hợp đồng vay tài sản, điều 463Bộ luật Dân sự2015 quy định : “hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay tài sản đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng và chấtlượng phải trả lãi theo thỏa thuận của pháp luật có quy định”. Tính chất đền bù trong hợp đồng vay thể hiện ở việc trả lãi.

Theo tinh thần điều 463Bộ luật Dân sựnăm 2015 thì hợp đồng về vay tài sản sẻ không đền bù nếu như các bên không có thỏa thuận gì về việc trả lãi. Việc trả lãi được coi là ngoại lệ và chỉ dược áp dụng nếu như trong hợp đồng có thể hiện hoặc pháp luật có quy định. Trong trường hợp các bên chỉ thỏa thuận về việc cho vay lãi nhưng chưa xác định rõ lãi suất hoặc nếu có tranh chấp về lãi suất thì được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tại thời điểm trả nợ.

Hợp đồng ủy quyền có tính đền bù hoặc không đền bù, tương tự như hợp đồng vay tài sản. Tính chất đền bù trong hợp đồng ủy quyền được thể hiện rõ ở việc trả thù lao. Sau khi thực hiện công việc được bên ủy quyên giao phó, bên được ủy quyền được hưởng lợi ích ngược lại dưới hình thức tiền thù lao. Điều562Bộ luật Dân sựnăm 2015 quy định” Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nhiệm vụ thực hiện thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, còn bên ủy quyền phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Điều đó có nghĩa rằng theo theo nguyên tắc chung thì hợp đồng ủy quyền không đền bù. Bên được ủy quyền chỉ được nhận tiền thù lao nếu như các bên có thỏa thuận trong hợp đồng về điều đó hoặc pháp luật có quy định.

Hợp đồng gửi giữ tài sản cùng thuộc nhóm thứ hai – nhóm các hợp đồng có thể đền bù hoặc không thể đền bù. Nhưng ngược lại với hợp đồng vay tài sản và hợp đồng ủy quyền, trong trường hợp gửi giữ tài sản thì nguyên tắc chung là có đền bù. Tính chất đền bù của hợp đồng gửi giữ tài sản được thể hiện thông qua tiền công cho bên giữ tài sản. Trường hợp hợp đồng gửi giữ không đền bù được coi là ngoại lệ. Điều 554Bộ luật Dân sựnăm 2015 quy định “Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng, còn bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ , trừ trường hợp gửi giữ không phải trả tiền công”. Nếu các bên không có thỏa thuận trong hợp đồng về việc trả tiền công thì khi phát sinh tranh chấp áp dụng mức tiền công trung bình tại địa điểm và thời điểm trả tiền công.

Bài viết được thực hiện bởi Luật gia Nguyễn Đức Anh – Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Tại sao các quy định củaBộ luật Dân sựnăm 2015 có sự khác biệt như vậy giữa hợp đồng cho gửi giữ và hợp đồng vay tài sản với hợp đồng ủy quyền?

Theo pháp luật của Nhà nước La mã thì cả ba loại hợp đồng này ( hợp đồng vay tài sản, hợp đồng ủy quyền và hợp đồng gửi giữ trài sản ) đều mang tính chất không đền bù. Hợp đồng vay tài sản “ Được tiến hành dựa sự thân quen và không lấy lãi suất”. Nếu các bên muốn cho vay có lãi thì lãi thì cần phải thực hiện bổ sung thêm một giao dịch nữa nhằm xác nhận nghĩa vụ trả lãi và lãi xuất thỏa thuận khi đó không được vượt quá mức lãi xuất cao nhất do pháp luật quy định. Hợp đồng gửi giữ và hợp đồng ủy quyền trong pháp luật La mã cũng mang tính chất không đền bù. Theo quan niệm của La Mã thì các công việc gìn giữ, bảo quản tài sản cho nhau hay công việc đại diện cho nhau xác lập giao dịch với người thứ ba ( trong hợp đồng ủy quyền ) được thực hiện dựa trên sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Đòi tiền cho các công việc đó là điều khó chấp nhận được, khi đó chuyển sang hợp đồng khoán việc. Thông thường các bên của hợp đồng ủy quyền này đều thuộc tầng lớp giàu có, do đó việc trả tiền công được hiểu như sự xúc phạm chính người chính người thực hiện công việc ủy quyền. Tuy nhiên, sẻ là lẽ thong thường nếu nhưcác bên được ủy quyền nhận quà ( merces ) cảm ơn bên có quyền. Quà này hoàn toàn có thể mang giá trị vật chất . Dần dần hình thành quà tặng này được biến thành loại khác – Hôr – một hình thức trung gian giữa quà tặng với tiền công bằng hiện vật.

Phải chăng pháp luật Việt Nam quy định hợp đồng gửi giữ, theo nguyên tắc chung là có đền bù ( ngược hẳn với hợp đồng vay tải sản và hợp đồng ủy quyền ), Trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác, là bởi vì trong xã hội Việt Nam ngày nay hợp đồng gửi giũ chuyên nghiệp ( với mục đích lợi nhuận chiếm đa số, vì rằng trong hợp đồng gửi giữ bên giữ luôn phải bỏ chi phí ra để bảo quản, giữ gìn tài sản trong suốt thời gian gửi giữ. Cách giải thích này có thể chưa chọn vẹn và cần sự nghiên cứu bổ sung thêm. Cũng không loại trừ trường hợp sự khác biệt đó được tạo nên một cách tính cờ trong qua trình soạn thảo văn bản pháp luật.

Nhóm thứ ba và cũng là nhóm phổ biến nhất – Các hợp đồng luôn đền bù. Đó là: Hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng trao đổi tài sản, hợp đồng thuê dịch vụ, hợp đồng gia công, hợp đồng vận chuyển.

Tính chất đền bù của hợp đồng mua bán thể hiện ở chổ : Sau khi bàn giao tài sản mua bán thì bên bán sẻ nhận được những lợi ích ngược lại dưới dạng tiền mua mà bên mua phải thanh toán. Tính chất đền bù của hợp đồng trao đổi được thể hiện bởi tài sản mà bên nhận được sau khi bàn giao tài sản của mình cho bên kia. Đối với hợp đồng mua bán tài sản và hợp đồng trao đổi trong đó các bên thỏa thuận không phải trả tiền mua ( hoặc không phải bàn giao tài sản ngược lại trong hợp đồng trao đổi tài sản) thì khi đó sẻ trả với bản chất pháp lí của hai loại hợp đồng đó. Hợp đồng khi đó sẽ có bản chất của hợp đồng tặng cho tài sản khi phát sinh tranh chấp sẽ áp dụng quy định đối với hợp đồng tặng cho tài sản để giải quyết.

Tính chất đền bù của hợp đồng thuê tài sản thể hiện ở việc trả tiền thuê. Điều 472Bộ luật Dân sựnăm 2015 có quy định mang tính chất bắt buộc rằng “ …còn bên thuê phải trả tiền thuê”. Nếu hợp đồng thuê mà trong đó các bên thỏa thuận rằng không phải trả tiền thuê thì hợp đồng đó sẽ được coi là hợp đồng mượn tài sản, chứ không phải hợp đồng thuê tài sản.

Vấn đề trở nên phức tạp khi phân tích đến các hợp đồng đề bù thuộc nhóm đối tượng là công việc phải thực hiện: Hợp đồng dịch vụ, hợp đồng gia công và hợp đồng vận chuyển. Các quy định củaBộ luật Dân sựnăm 2015 về bốn loại hợp đồng này đều thể hiện rõ tính chất luôn đền bù của chúng. Đối với hợp đồng dịch vụ thì Điều 513Bộ luật Dân sựnăm 2015 quy định: “…, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.. Đối với hợp đồng vận chuyển hành khách thì điều 522Bộ luật Dân sựnăm 2015 quy định. “…còn hành khách phải thanhh toán cước phí vận chuyển”. Đối với hợp đồng vận chuyển tài sản thì điều 530Bộ luật Dân sựnăm 2015 quy định “…còn bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả cước phí vận chuyển”.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết trong lĩnh vực nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật:1900 6198, E-mail:info@everest.org.vn.