Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống thuộc diện thừa kế hoặc người không thuộc diện thừa kế nhưng được người để lại di sản thừa kế để lại tài sản theo di chúc, tài sản để lại được gọi là di sản.

Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định (Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Thứ nhất, xác định thời hiệu về thừa kế

Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế như sau: “1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau: (a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này; (b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này. 2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. 3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Bộ luật Dân sự năm 2015 phân biệt rõ thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di sản thừa kế là động sản và bất động sản (10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất động sản). Quy định này là phù hợp với tính chất quan trọng của từng loại di sản thừa kế và tương thích với quy định về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật tại Điều 236 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

Một là, thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế

Thông thường, nếu các thừa kế thỏa thuận được với nhau về cách thức phân chia di sản thừa kế, không có tranh chấp thì việc phân chia đó được thực hiện theo thỏa thuận.

Trong trường hợp các bên có tranh chấp, không thỏa thuận được cách thức phân chia di sản thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án phân chia trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu quá thời hạn yêu cầu chia di sản thừa kế, một trong các bên mới yêu cầu phân chia di sản thừa kế thì Tòa án có quyền từ chối giải quyết khi có đương sự yêu cầu xem xét vấn đề thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế.

Hai là, thời hiệu yêu cầu xác nhận quyền thừa kế

Yêu cầu xác nhận quyền thừa kế xảy ra khi một người không có các căn cứ rõ ràng chứng minh mình thuộc diện thừa kế của người để lại di sản thừa kế.

Theo quy định của pháp luật về thừa kế, chỉ có những người thuộc diện thừa kế mới có quyền thừa kế. Đó là những người thuộc các hàng thừa kế, người được thừa kế thế vị, giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế quy định tại các điều 651, 652, 653 và 654 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, nếu một người không có các căn cứ nêu trên một cách rõ ràng, không được các đồng thừa kế khác công nhận quyền thừa kế thì trong thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế, người đó có đơn yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình sẽ được Tòa án giải quyết. Ngoài thời hạn trên mà người đó mới có đơn, nếu một trong các thừa kế yêu cầu xem xét vấn đề thời hiệu khởi kiện thì Tòa án có quyền từ chối giải quyết yêu cầu xác nhận quyền thừa kế.

Ba là, thời hiệu yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế

Trường hợp các thừa kế đều có các căn cứ rõ ràng về quyền thừa kế của mình thì các thừa kế có quyền thỏa thuận phân chia di sản. Tuy nhiên, trường hợp một trong các thừa kế có nghi ngờ về “thân phận” hưởng thừa kế của một trong các thừa kế khác thì cũng có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án bác quyền thừa kế của người đó. Đơn yêu cầu đó cũng phải được nộp trong thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu quá thời hạn trên nhưng không có đương sự nào yêu cầu xem xét vấn đề về thời hiệu thì Tòa án vẫn giải quyết theo thủ tục chung.

Bốn là, thời hiệu yêu cầu liên quan đến di sản thừa kế

Trường hợp một người khi còn sống có các nghĩa vụ về tài sản theo hợp đồng cũng như nghĩa vụ tài sản ngoài hợp đồng chưa thanh toán thì khi người đó chết, nghĩa vụ tài sản đó không đương nhiên chấm dứt. Các chủ nợ, người bị thiệt hại có quyền khởi kiện trong thời hạn 03 năm kể từ thời điểm mở thừa kế để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, những người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản đó trong phạm vi di sản của người chết để lại.

Thứ hai, những lưu ý khi xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Một là, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Việc xác định khoảng thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện sẽ dẫn đến thời hạn từ thời điểm mở thừa kế đến thời điểm hết thời hạn khởi kiện có thể dài hơn 10 năm (đối với di sản là động sản), dài hơn 30 năm (đối với di sản là bất động sản). Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:

(i) Có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015: Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép; trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.

Sự kiện được coi là sự kiện bất khả kháng khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:

- Là sự kiện xảy ra một cách khách quan;

- Không thể lường trước được;

- Không thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Những trở ngại được coi là trở ngại khách quan khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:

- Trở ngại phải là khách quan đối với chủ thể bị tác động bởi trở ngại đó;

- Không thể biết được quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự.

(ii) Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

(iii) Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp: Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân; Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.

Hai là, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Theo quy định tại Điều 157 Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được bắt đầu lại trong các trường hợp sau:

(i) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;

(ii) Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;

(iii) Các bên đã tự hòa giải với nhau.

Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra một trong các sự kiện nêu trên.

Ba là, áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo sự lựa chọn của đương sự

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 149 Bộ luật dân sự năm 2015, Khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì: “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”.

Như vậy, vụ án thừa kế sẽ không tính thời hiệu theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015 nếu không có bên đương sự nào đưa ra yêu cầu áp dụng trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án đó. Vì vậy, Tòa án không được căn cứ vào việc thời hiệu khởi kiện vụ án thừa kế đã hết để đình chỉ giải quyết vụ án mà phải tiến hành giải quyết tranh chấp bình thường. Nếu có đương sự đưa ra yêu cầu áp dụng thời hiệu về thừa kế trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc thì Tòa án phải xem xét giải quyết yêu cầu này. Nếu đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh vụ án thừa kế đã hết thời hiệu thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bốn là, cách tính thời hiệu về thừa kế

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định. Do đó, để tính được thời hiệu về thừa kế thì cần thiết phải xác định các “thời hạn do luật quy định”, tức là xác định về khoảng thời gian trong thời hạn, thời điểm để tính bắt đầu, kết thúc thời hạn.

Thời hạn là một khoảng thời gian có thể được xác định bằng phút, giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể xảy ra. Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rõ thời hạn được tính theo dương lịch, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về thời hạn là một năm, nửa năm, một tháng, nửa tháng, một tuần, một ngày, một giờ, một phút mà khoảng thời gian diễn ra không liền nhau thì thời hạn đó được tính như sau: Một năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày; nửa năm là sáu tháng; một tháng là ba mươi ngày; nửa tháng là mười lăm ngày; một tuần là bảy ngày; một ngày là hai mươi tư giờ; một giờ là sáu mươi phút; một phút là sáu mươi giây.

Trường hợp các bên thỏa thuận về thời điểm đầu tháng, giữa tháng, cuối tháng thì thời điểm đó được quy định như sau: Đầu tháng là ngày đầu tiên của tháng; giữa tháng là ngày thứ mười lăm của tháng; cuối tháng là ngày cuối cùng của tháng.

Trường hợp các bên thỏa thuận về thời điểm đầu năm, giữa năm, cuối năm thì thời điểm đó được quy định như sau: Đầu năm là ngày đầu tiên của tháng một; giữa năm là ngày cuối cùng của tháng sáu; cuối năm là ngày cuối cùng của tháng mười hai.

Thứ ba, giải quyết di sản thừa kế hết thời hiệu khởi kiện

Khi quá thời hạn 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế mà không có yêu cầu chia di sản thừa kế, hoặc có yêu cầu chia di sản thừa kế nhưng Tòa án xác định đã hết thời hiệu phân chia di sản theo yêu cầu của một hoặc các bên thì di sản được giải quyết như sau:

(i) Di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó (trường hợp người quản lý di sản là một trong những người thừa kế).

(ii) Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản thuộc quyền sở hữu của người được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật (Điều 236 Bộ luật Dân sự năm 2015). Việc chiếm hữu của người này phải là ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn hưởng quyền.

Yếu tố ngay tình đòi hỏi người chiếm hữu này không biết và không buộc phải biết mình là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.

Yếu tố liên tục đòi hỏi người chiếm hữu không bị gián đoạn về thời gian; nếu có sự kiện làm gián đoạn thì thời hiệu xác lập quyền đó được tính lại từ đầu ngay sau khi sự kiện làm gián đoạn chấm dứt.

Thứ tư, thời hiệu hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự bị gián đoạn

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 153 Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự bị gián đoạn khi có một trong các sự kiện sau đây:

(i) Có sự giải quyết bằng một quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với quyền, nghĩa vụ dân sự đang được áp dụng thời hiệu;

(ii) Quyền, nghĩa vụ dân sự đang được áp dụng thời hiệu mà bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan tranh chấp và đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Thời hiệu cũng được tính liên tục trong trường hợp việc hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự được chuyển giao hợp pháp cho người khác.

Luật gia Nguyễn Thị Phương Hoa - Tổ tư vấn pháp luật dân sự của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@everest.net.vn.
  2. Nộidung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.