Giải thích hợp đồng trên cơ sở quy định của pháp luật

Ông H (Nguyên đơn – Bên mua bảo hiểm) xác lập hợp đồng bảo hiểm với công ty B (Bị đơn – Bên bảo hiểm). Sau đó các Bên có tranh chấp về nội hàm “lái xe không có giấy phép lái xe hợp lệ” được nêu trong hợp đồng và Hội đồng Trọng tài đã căn cứ

Ông H (Nguyên đơn – Bên mua bảo hiểm) xác lập hợp đồng bảo hiểm với công ty B (Bị đơn – Bên bảo hiểm). Sau đó các Bên có tranh chấp về nội hàmlái xe không có giấy phép lái xe hợp lệ” được nêu trong hợp đồng và Hội đồng Trọng tài đã căn cứ vào một số quy định của pháp luật để xác định nội hàm vừa nêu.

Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật nêu trên  – gọi tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198
Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật nêu trên – gọi tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

Quan điểm và ý kiến cá nhân:

Trong một chủ đề khác, chúng ta đã thấy hợp đồng đôi khi cần phải giải thích để biết được quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan. Trong vụ việc trên cũng vậy. Cụ thể, ngày 12/10/2011, khi điều khiển xe thuộc đối tượng bảo hiểm, lái xe là ông Q đã phạt vi phạm hành chính với hành vi “để người ngồi trên buồng lái xe quá số lượng quy định” với hình thức phạt tiền và tạm giữ giấy phép lái xe. Hai ngày sau đó, xe gây tai nạn và Bên mua bảo hiểm yêu cầu Bên bảo hiểm tiến hành bảo hiểm nhưng không được chấp nahạn. Lý do để Bên bảo hiểm từ chối bảo hiểm là vì trong hợp đồng có quy định một trong những điểm loại trừ trách nheiẹm bảo hiểm là “tại thời điểm xảy ra tai nạn, lái xe không có giấy phép lái xe hợp lệ”. Phía Bảo hiểm cho rằng “việc lái xe bị tạm giữ giấy phép lái xe được coi là không có giấy phép lái xe hợp lệ và do đó, thuộc trường hợp loại trừ bảo hiểm theo quy định tại quy tắc bảo hiểm” nhưng quan điểm này không được Bên mua bảo hiểm đồng ý.

Phần trên cho thấy các Bên hiểu không thống nhất về khái niệm “lái xe không có giấy phép lái xe hợp lệ” và cần phải giải thích. Thực tế, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng “việc lái xe bị tạm giữ giấy phép lái xe khi xảy ra tai nạn khong thuộc trường hợp loại trừ bảo hiểm theo quy định tại khoản 3 Điều 9 Quy tắc bảo hiểm. Do đó, Bị đơn có nghĩa vụ bồi thường cho Nguyên đơn những tổn thất, thiệt hại xảy ra đối với tài sản được bảo hiểm”. Để đạt được kết quả này, Hội đồng Trọng tài đã phải giải thích khái niệm trên và dưới đây là cách giải thích của Hội đồng Trọng tài.

Theo Hội đồng Trọng tài, “Thứ nhất, QTBH không liệt kê rõ những trường hợp nào được xem là không có giấy phép lái xe hợp lệ. Luật Giao Thông Đường Bộ cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành không có bất kỳ điều khoản giải thích thế nào là “giấy phép lái xe hợp lệ”. Tuy nhiên, tham khảo các điều khoản về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ quy định tại Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2012 (“NĐ34”), giấy phép lái xe hợp lệ có thể được hiểu là: (i) giấy phép lái xe phù hợp với loại xe đang điều khiển; (ii) giấy phép lái xe còn trong thời hạn sử dụng; (iii) giấy phếp lái xe do cơ quan có thẩm quyền cấp; và (iv) giấy phép lái xe không bị tẩy xóa. Tính đến thời điểm xay ra sự kiện bảo hiểm, chưa có bất kỳ quyết định nào của cơ quan có thầm quyền xác định giấy phép lái xe của người điều khiển xe BKS 85C- XXXX vi phạm một trong những quy định nêu trên. Do đó, không có cơ sở để khẳng định giấy phép lái xe của tài xế xe là không hợp lệ; Thứ hai, không mang theo giấy phếp lái xe không có nghĩa là người lái xe không có giấy phép lái xe. Điều này khác với việc không có giấy phép lái xe hoặc không có giấy phép lái xe hợp lệ. Việc B đồng nhất hai khái niệm này với nhau, cho rằng bị tạm giữ giấy phép lái xe chính là không có giấy phép lái xe hợp lệ là không có căn cứ; Thứ ba, bị tạm giữ giấy phép lái xe không đồng nghĩa với việc bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe. NĐ 34 quy định rõ tước quyền sử dụng giấy phếp lái xe là một hình phạt bổ sung và trong thời gian bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, người vi phạm không được điều khiển các loại phương tiện (được phép điều khiển) ghi trong Giấy phép lái xe (khoản 2 Điều 5, khoản 1 Điều 6 NĐ 34). Như vậy, có thể hiêu, trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe, người lái xe bị coi như không có giấy phép lái xe. Trong khi đó, tạm giữ giấy phép lái xe theo Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính chỉ là một trong những biện pháp bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do không phải là một hình thức xử phạt nên quyền điều khiển phương tiện giao thông của người lái xe không bị mất trong thời gian bị tạm giữ giấy phé. Thực tế, theo ý kiến đánh giá của Công an huyện T, tỉnh Q đã khẳng đinh, việc tạm giữ giấy phép lái xe ông Q vẫn được quyền điều khiển phuwong tiên. Do đó, ý kiến của Tổng cục Đường bộ Việt Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải chỉ có ý nghĩa tham khảo, không phải là căn cứ bỏ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn”.

Ở đoạn trên, chúng ta thấy Hội đồng Trọng tài giải thích một nội dung của hợp đồng bằng cách khai thác các quy định của một Nghị định của Chính phủ. Cách khai thác quy định của pháp luật để làm rõ một khái niệm chưa rõ trong hợp đồng không hiếm trong thực tế. Chẳng hạn, trong một tranh chấp khác tại VIAC, trước việc cá bên hiểu khác nhau về thuật ngữ “trách nhiệm” trong hợp đồng, Hội đồng Trọng tài thuộc VIAC đã xét rằng “trong hợp đồng, các Bên dành cả Điều 1 để Định nghĩa và giải thích các thuật ngữ được sử dụng trong hợp đồng nhưng không định nghĩa cũng như giải thích thuật ngữ trách nhiêm. Khi các Bên không thỏa thuận, Hội đồng Trọng tài sẽ phải áp dụng luật để giải quyết vấn đề. Khi xem xét Bộ luật dân sự năm 2005, có thể thấy, thuật ngữ trách nhiệm được Bộ luật dân sự năm 2005 sử dụng với một trong hai ngữ nghĩa sau: Ở ngữ nghĩa thứ nhất, một chủ thể có trách nhiệm là vi đã có việc một bên có nghĩa vụ nhưugn không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như quy định tại khoản 1 Điều 302 mà Bị đơn đã nêu ở trê. Ở ngữ nghĩa thứ nhất này, trước tiên phải tồn tại một nghĩa vụ, sau đó phải có việc vi phạm nghĩa vụ và cuối cùng nói đến trách nhiệm như một hệ quả của việc vi phạm nghĩa vụ (tức trách nhiệm chỉ phát sinh khi có veiẹc vi phạm một nghĩa vụ đã tồn tại trước đó). Ở ngữ nghĩa thứ hai, thuật ngữ trách nhiệm được sư dụng như một nghĩa vụ (một chủ thể có trách nhiệm thì được hiểu là chủ thể này phải thực hiện một công việc, một nghĩa vụ nào đó). Cụ thể, theo khoản 2 Điều 32 Bộ luật dân sự năm 2005, khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát hiện có trách nhiệm đưa đến cơ sở y tế. Quy định này cho thấy, thuật ngữ trách nhiệm có nội hàm là người phát hiện phải thực hiện nghĩa vụ đưa người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa đến cơ sở y tế. Nghĩa vụ này phát sinh hoàn toàn không phải là hệ quả của việc vi phạm một nghĩa vụ dân sự đã tồn tại như quy định tại khoản 1 Điều 302 nêu trên. Tương tự, theo khoản 1 Điều 69 Bộ luật dân sự năm 2005, người giám hộ có trách nhiệm quản lý tài sản của nguwòi được giám hộ như tài sản của chính mình. Cùng với ý nghĩa như vậy, trong Điều 586 về Nghĩa ụ của bên ủy quyền, Bộ luật dân sự năm 2005 về cam kết do bên được ủy quyền thực hiện trong phạm vi ủy quyền. Để cho thấy tính pháp lý của veiẹc sử dụng thuật ngữ trách nhiệm như một nghĩa vụ, chúng ta có thể xem thêm nội dung Điều 220 hay khoản 2 Điều 268 Luật Thương mại năm 2005 theo đó Bên mời thầy có trách nhiệm chỉ dẫn cho bên dự thầy về các điều kiệnd ự thầy, các thủ tục đưcợ dự thầu hay Cơ quan nhà nuwóc yêu ccầu giám định có trách nhiệm trả thù lao giám định cho thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định theo thỏa thuận giữ hai bên trên cơ sở giá thị trường. Như vậy, căn cứ vào Bộ luật dân sự năm 2005 cũng như Luật Thương mại năm 2005 (là các văn bản quy phạm pháp luật đuocwj áp dụng cho hợp đồng đang có tranh chấp), trách nhiệm không chỉ được sử dụng với ý nghĩa của Điều 302 Bộ luật dân sự năm 2005, mà còn được sử dụng với ý nghĩa là một nghĩa vụ dân sự, mà một chủ thể phải thực hiện cho một chủ thể khác”.

Việc sử dụng quy phạm pháp luật (trong Nghị định hay Luật, Bộ luật) để giải thích hợp đồng có điều gì đó chưa ổn xét từ góc độ lý thuýet. Bởi lẽ, hợp đồng là sản phẩm của các bên trong hợp đồng (tức là ý chí của các bên) trong khi đó quy phạm pháp luật là sản phẩm của cơ quan lập pháp (tức ý chí của cơ quan lập pháp) nên giải hợp đồng (tức là xác định ý muốn đích thực của các bên khi xác lập giao dịch) phải gắn với ý chí của các bên, không gắn với ý chí của các nhà lập pháp. Tuy nhiện, phải thừa nhận rằng khi đã có quy định pháp luật về một vấn đề (một khái niệm) mà trong hợp đồng không có thỏa thuận khác thì chúng ta hiểu rằng các bên ngầm đã lấy khái niệm trong quy định của pháp luật để đưa vào hợp đồng. Lúc này “khái niệm luật đinh” trở thành “khái niệm của hợp đồng”. Vì thế, việc cơ quan tài phán dựa vào quy định của pháp luật để giải thích một thuật ngữ, một khái niệm tỏng hợp đồng không thực sự mâu thuẫn nhau. Hướng nay là thuyết phục vì thuật ngữ hay khái niệm được luật hóa trở thành khái niệm chính thông, ai cũng phải biết và khi không có thỏa thuận khác thì coi như các bên đã ngầm chấp nhận khái niệm, thuật ngữ trong quy phạm pháp luật.

Từ các vụ việc trên, doanh nghiệp cần biết rằng nếu một thuật ngữ, một khái niệm trong hợp đồng mà các bên có tranh chấp và thuật ngữ này, khái niệm này đã được làm rõ trong quy phạm pháp luật thì nhiều khả năng cơ quan tài phán sẽ sử dụng nội hàm của thuạt ngữ, khái niệm trong quy phạm pháp luật. Nếu trong hợp đồng, các bên sử dụng môt thuật ngữ đã tồn tại trong quy định của pháp luật và các bên không có định hướng nội hàm khác thì thuật ngữ được sử dụng trong hợp đồng có nhiều khả năng được hiểu như nội dung trong quy định của pháp luật. Vì thế, nếu muốn thuật ngữ trên có nội hàm khác nội hàm trong quy định của pháp luật, các bên phải định nghĩa luôn nội hàm của thuật ngữ này trong hợp đồng. Đây là điểm mà các doanh nghiệp nên biết để có những ứng xử phù hợp với lợi ích của mình khi tham gia vào việc xác lập giao dịch.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật:1900 6198,E-mail:info@everest.org.vn.