Hệ quả của chấm dứt hợp đồng với quyền lợi của các bên

Công ty M ( Nguyên đơn ) và Công ty T ( Bị đơn ) xác lập Hợp đồng tư vấn thiết kế lập quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 và lập dự án đầu tư phần hạ tầng kỹ thuật cho một dự án du lịch .

Công ty M ( Nguyên đơn ) và Công ty T ( Bị đơn ) xác lập Hợp đồng tư vấn thiết kế lập quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 và lập dự án đầu tư phần hạ tầng kỹ thuật cho một dự án du lịch . Sau đó , hợp đồng chấm dứt và Hội đồng trọng tài được yêu cầu giải quyết hệ quả của việc chấm dứt hợp đồng .
Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật nêu trên  – gọi tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198
Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật nêu trên – gọi tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198
Quan điểm và ý kiến cá nhân:
Không hiếm trường hợp hợp đồng chưa được hoàn thành nhưng một trong các bên tiến hành chấm dứt hợp đồng . Khi hợp đồng chấm dứt , quyền và nghĩa vụ của các bên được xử lý như thế nào ? Trong vụ việc trên , Hội đồng Trọng tài xác định do Bị đơn vi phạm tiến độ thực hiện hợp đồng tư vấn thiết kế nên Nguyên đơn đã nhiều lần gửi văn bản thông báo cho Bị đơn về việc chấm dứt hợp đồng . Bị đơn cũng đã đồng ý chấm dứt hợp đồng . Như vậy , việc các bên chấm dứt hợp đồng tư vấn thiết kế là đúng quy định . Bị đơn có lỗi trong việc hợp đồng bị chấm dứt ” . Việc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn có thể do lỗi của một bên và việc này có thể làm phát sinh trách nhiệm bồi thường .
Nội dung này được nghiên cứu ở chủ đề khác nên không được nhắc đến ở đây . Về quyền và nghĩa vụ của các bên khi hợp đồng bị chấm dứt , Điều 426 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “ khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt . Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ . Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán " ( khoản 3 ) , Bộ luật dân sự năm 2015 duy trì quy định vừa nêu tại khoản 3 Điều 428 theo đó “ Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt . Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ , trừ thỏa thuận về phạt vi phạm , bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp . Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán phần nghĩa vụ đã thực hiện ” . Luật Thương mại năm 2005 cũng có quy định về chủ đề này thông qua khái niệm Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thực hiện hợp đồng tại Điều 311 theo đó “ Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ . Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng . Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng ” . Với quy định trên , khi hợp đồng chấm dứt , hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý đối với quá khứ , phần đã được thực hiện ràng buộc các bên .
Ở đây , bên đã thực hiện được yêu cầu bên kia lại thanh toán phần đã thực hiện . Do đó , trong vụ việc trên , khi một bên đã thực hiện trước thời điểm hợp đồng được chấm dứt thì được thanh toán phần đã thực hiện . Trong vụ việc trên , theo Hội đồng Trọng tài , “ do Bị đơn chậm tiến độ nên Nguyên đơn đã chấm dứt hợp đồng tư vấn thiết kế và ký hợp thuê đơn vị khác thực hiện thay Bị đơn . Có thể Nguyên đơn đã không tiếp tục sử dụng các sản phẩm thiết kế do Bị đơn chuyển giao , nhưng không thể phủ nhận việc Bị đơn đã thực hiện nhiều nội dung công việc trong giai đoạn 1 - quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 và đã phát sinh một số chi phí liên quan ” . Ở đây , Hội đồng Trọng tài đã xác định Bị đơn đã thực hiện nhiều nội dung và câu hỏi đặt ra là Bị đơn có được thanh toán công việc đã thực hiện không ? Theo Hội đồng Trọng tài , sau khi Nguyên đơn có văn bản thông báo và Bị đơn đồng ý việc chấm dứt hợp đồng , các bên chưa thực hiện thủ tục thanh lý hợp đồng và quyết toán giá trị hợp đồng . Do đó , Hội đồng Trọng tài không có cơ sở để xác định giá trị phần công việc mà Bị đơn đã thực hiện , cũng như không có cơ sở để buộc Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn số tiền chênh lệch giữa giá trị thực hiện thực tế với số tiền 20 % giá trị hợp đồng giai đoạn 1 - quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 mà Nguyên đơn đã thanh toán cho Bị đơn ” .
Từ vụ việc trên , doanh nghiệp biết rằng khi hợp đồng bị chấm dứt thì bên đã thực hiện có quyền được thanh toán . Tuy nhiên , để được thanh toán , bên có quyền phải chứng minh được những công việc mà mình đã thực hiện và khoản tiền được hưởng từ những công việc đã được thực hiện . Nếu bên đã thực hiện không chứng minh được những thông tin vừa nêu , yêu cầu thanh toán đối với khoản việc đã được thực hiện có nguy cơ không được chấp nhận như chúng ta đã thấy trong vụ việc trên .

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật lao động được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia đượctrích dẫntừ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật1900 6198,Email:info@everest.net.vn.