Đơn vị nào chi trả trợ cấp thôi việc khi người lao động làm việc ở nhiều nơi?

Công ty Nhà nước A được chuyển đổi thành Công ty cổ phần A chỉ làm thay đổi về mặt pháp lý chứ không làm thay đổi về nghĩa vụ chi trả những khoản nợ cũng như những khoản trợ cấp đối với người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động tại công ty.

Hỏi: Tôi làm việc từ năm 1995 đến 2004 tại Công ty Nhà Nước A theo hợp đồng lao động không thời hạn. Năm 2004, Công ty Nhà nước A được cổ phần hóa thành Công ty Cổ phần A , tôi tiếp tục thực hiện hợp đồng trên với công ty Cổ phần A đến năm 2012; cuối năm 2012, Công ty Cổ phần A thành lập Công ty TNHH Một thành viên B (100% vốn sở hữu của công ty Cổ phần A) và bổ nhiệm tôi làm kế toán trưởng công ty, ngay sau đó tôi ký hợp đồng lao động với công ty TNHH MTV B, loại hợp đồng lao động không thời hạn. Đề nghị Luật sư tư vấn, công ty nào sẽ thanh toán trợ cấp cho tôi khi chấm dứt hợp đồng lao động và tiền lương làm cơ sở để chi trả trợ cấp cho tôi được xác định như thế nào? (Nguyễn Văn Tuấn - Hải Phòng).
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Bùi Ánh Vân - Tổ tư vấn pháp luật an sinh xã hội của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo như thông tin bạn cung cấp, bạn đã làm việc tại Công ty Nhà nước A từ năm 1995 đến năm 2004 và sau đó Công ty này chuyển đổi thành Công ty cổ phần A và bạn tiếp tục công tác tại đó cho đến năm 2012. Tuy Công ty Nhà nước A được chuyển đổi thành Công ty cổ phần A chỉ làm thay đổi về mặt pháp lý chứ không làm thay đổi về nghĩa vụ chi trả những khoản nợ cũng như những khoản trợ cấp đối với người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động tại công ty. Do đó, khi nghỉ việc tại Công ty Cổ phần A, công ty sẽ phải có nghĩa vụ chi trả trợ cấp thôi việc cho bạn từ năm 1995 đến năm 2008 vì khi này công ty chưa đóng BHTN cho bạn nên nghĩa vụ chi trả thuộc về Công ty. Theo đó thì Công ty Cổ phần A đương nhiên là nơi chi trả trợ cấp thôi việc cho bạn khi chấm dứt hợp đồng.

Về mức chi trả sẽ được tính bằng bình quân 6 tháng lương cuối trước khi nghỉ việc.

Điều 48 Bộ luật lao động 2012 quy định về trợ cấp thôi việc như sau:

"1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.

2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.

3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc".

Căn cứ theo quy định trên, mức hưởng chế độ trợ cấp thôi việc của bạn sẽ được tính dựa trên mức lương bình quân 6 tháng bạn hưởng trước lúc nghỉ việc tại Công ty Cổ phần A.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật an sinh xã hội mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.