Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường phải có thiệt hại

Công ty M (Nguyên đơn) ký hợp đồng với Công ty T (Bị đơn) để thi công công việc chống thấm cho một tòa nhà. Sau đó hai bên có tranh chấp và một bên yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, yêu cầu bồi thường thiệt hại không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận.

Công ty M (Nguyên đơn) ký hợp đồng với Công ty T (Bị đơn) để thi công công việc chống thấm cho một tòa nhà. Sau đó hai bên có tranh chấp và một bên yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, yêu cầu bồi thường thiệt hại không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận.

Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật giao thông, gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198
Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật giao thông, gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

Quan điểm và ý kiến cá nhân:
Trong thực tế, không hiếm khi gặp trường hợp một bên cho rằng bên kia đã vi phạm hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Yêu cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng được chấp nhận không khi không chứng minh được thiệt hại?
Trong vụ việc trên, Bị đơn đã thông báo cho Nguyên đơn biết là Bị đơn chấm dứt hợp đồng. Nguyên đơn cho rằng “đây là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật” nên Bị đơn “phải bồi thường thiệt hại” cho Nguyên đơn “bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp” mà Nguyên đơn phải chịu do lỗi của Bị đơn gây ra cũng như khoản lợi mà Nguyên đơn đáng ra được hưởng. Tuy nhiên, theo Hội đồng Trọng tài, “Căn cứ vào Hồ sơ Vụ tranh chấp, trả lời câu hỏi của Hội đồng Trọng tài về việc yêu cầu Nguyên đơn cung cấp các bằng chứng để làm cơ sở chứng minh việc Bị đơn gây thiệt hại trực tiếp cho Nguyên đơn và Nguyên đơn phải chịu do Bị đơn gây ra và khoản lợi trực tiếp mà Nguyên đơn đáng lẽ được hưởng, nhưng Nguyên đơn đã không đưa ra được bất kỳ bằng chứng nào để chứng minh Bị đơn đã gây thiệt hại trực tiếp cho Nguyên đơn. Như vậy, việc yêu cầu bồi thường thiệt hại của Nguyên đơn đối với Bị đơn chủ yếu chỉ căn cứ vào ngôn từ trong hợp đồng và giải thích theo suy luận của Nguyên đơn là không thuyết phục, không phù hợp với quy định của pháp luật về yêu cầu bồi thường thiệt hại. Do vậy, yêu cầu này của Nguyên đơn chưa có cơ sở pháp lý để Hội đồng Trọng tài chấp nhận”.
Cũng trong vụ việc trên, Bị đơn cho rằng Nguyên đơn vị phạm hợp đồng gây thiệt hại nên yêu cầu Nguyên đơn bồi thường. Tuy nhiên, theo Hội đồng Trọng tài, “để buộc Nguyên đơn bồi thường thiệt hại, Bị đơn phải chứng minh (1) Nguyên đơn vi phạm hợp đồng; (ii) có thiệt hại thực tế và hành vi vi phạm hợp đồng của Nguyên đơn là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Khi xem xét yêu cầu này của Bị đơn, Hội đồng Trọng tài nhận thấy: thứ nhất, Nguyên đơn đã vi phạm hợp đồng (mặc dù đã hoàn thành khối lượng công việc theo hợp đồng nhưng phạm vi chống thấm mà Nguyên đơn thi công còn có thấm dột - điều này đã được Nguyên đơn thừa nhận); thứ hai, theo quy định tại khoản 2, Điều 303 Luật Thương mại năm 2005, muốn được bồi thường thiệt hại thì phải chứng minh “có thiệt hại thực tế” xảy ra. Tại các phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, Bị đơn không cung cấp được bất cứ bằng chứng nào chứng minh việc Nguyên đơn gây thiệt hại trên thực tế cho Bị đơn để làm căn cứ yêu cầu bồi thường”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài khẳng định “chưa có đủ cơ sở để Hội đồng Trọng tài tin rằng thiệt hại trên thực tế đã xảy ra để chấp nhận yêu cầu này của Bị đơn”.

Đối với tranh chấp thương mại, căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường đã được quy định tại Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thi
ệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”. Trong vụ việc trên, chúng ta thấy tồn tại yêu cầu bồi thường thiệt hại và, trong yêu cầu thứ hai (của Bị đơn), chúng ta đã thấy Hội đồng Trọng tài xác định có hành vi vi phạm hợp đồng. Mặc dù vậy, trong cả hai trường hợp, Hội đồng Trọng tài đều từ chối yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ở đây, nguyên nhân chính dẫn đến từ chối yêu cầu bồi thường là do bên yêu cầu không chứng minh được thiệt hại (một trong những điều kiện để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại).
Do đó, khi cho rằng mình bị vi phạm và yêu cầu bồi thường thiệt hại doanh nghiệp cần chuẩn bị kỹ chứng cứ, nhất là chứng cứ về sự tồn tại của thiệt hại trong thực tế. Nếu không chuẩn bị kỹ chứng cứ như vừa nêu, yêu cầu bồi thường thiệt hại có nguy cơ không được chấp nhận như chúng ta đã thấy.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật:1900 6198,E-mail:info@everest.org.vn.