Các trường hợp không cấp Giấy phép thành lập Văn phòng đại diện của tổ chức xúc tiến thueoeng là gì?

Việc thành lập Văn phòng đại diện của tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài phải được đăng ký với cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép. Tuy nhiên không phải trường hợp nào tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài cũng được cấp giấy phép thành lập.

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài tiến hành các hoạt động liên quan đến xúc tiến thương mại tại Việt Nam phải thành lập Văn phòng đại diện theo quy định tại Nghị định 100/2011/NĐ-CP..

Việc thành lập Văn phòng đại diện phải được đăng ký với cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép theo quy định tại Nghị định này.

Nghị định 100/2011/NĐ-CP quy định không cấp giấy phép thành lập văn phòng đại diện cho tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài trong những trường hợp như sau:

1. Tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 5 Nghị định này;

2. Tổ chức xúc tiến thương mại có tiến hành kinh doanh hàng hóa, dịch vụ;

3. Tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài đề nghị cấp Giấy phép thành lập Văn phòng đại diện trong thời gian 02 năm, kể từ ngày bị thu hồi Giấy phép thành lập Văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Nghị định này;

4. Có bằng chứng cho thấy việc thành lập Văn phòng đại diện gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của Việt Nam và sức khỏe của nhân dân, làm hủy hoại tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường;

5. Hồ sơ không hợp lệ và không bổ sung đủ hồ sơ theo yêu cầu của cơ quan cấp giấy phép;

6. Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@everest.net.vn.z
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Tố tụng – Trọng tài mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.