Biện pháp đảm bảo nghĩa vụ hợp đồng: Ký quỹ

Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá vào tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.

Ký quỹ như một hình thức khác: cầm cố tài sản, bão lãnh, ký cược, tín chấp, đặt cọc đều nhằm một mục đích đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự khi có bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với người có quyền.

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật nêu trên – gọi tổng đài tư vấn pháp luật (24/7):1900 6198
Thứ nhất, quy định của Bộ luật Dân sự và một số pháp luật khác về biện pháp ký quỹ
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:“1- Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá vào tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. 2- Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có quyền được tổ chức tín dụng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa vụ gây ra, sau khi trừ chi phí dịch vụ. 3- Thủ tục gửi và thanh toán thực hiện theo quy định của pháp luật”. (Điều 30)
Theo quy định trên thì các tài sản không được sử dụng đê ký quỹ bao gồm: động sản, ngoại trừ kim khí quý hoặc đá quý, bất động sản và quyền tài sản.Đồng thời, nếu theo đúng quy định trên thì luôn có 3 bên tham gia và giao dịch ký quỹ, đó là bên có nghĩa vu (bên ký quỹ), bên có quyền (bên nhận ký quỹ) và tổ chức tín dụng. Thủ tục gửi và thanh toán ký quỹ được thực hiện theo quy định của pháp luật cũng thường có sự tham gia của các tổ chức tín dụng như ký quỹ để đi làm việc ở nước ngoài, ký quỹ để cho thuê lại lao động, ký quỹ bảo đảm dự thầu hay ký quỹ để xin giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm.
Điều 9Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006, quy định: "Điều kiện cấp Giấy phép:Doanh nghiệp có vốn pháp định quy định tại khoản 2 Điều 8 của Luật này có đủ các điều kiện sau đây thì được cấp Giấy phép: 4- Có tiền ký quỹ theo quy định của Chính phủ".
Đối vối lĩnh vực ngân hàng thì việc ký quỹ có thể chỉ có sự tham gia của hai bên là bên ký quỹ (bên có nghĩa vụ) và bên tổ chức tín dụng (cũng đồng thời là bên có quyền và bên nhận ký quỹ, thay vì lại phải ký quỹ ở một tổ chức tín dụng khác).Hay theo một số quy định khác thì giao dịch ký quỹ lại không nhất thiết phải có sự tham gia của tổ chức tín dụng. Chẳng hạn, các công ty chứng khoán cũng thực hiện việc ký quỹ.
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 cũng quy định: “Nghiêm cấm cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động ngân hàng, trừ giao dịch ký quỹ, giao dịch mua, bán lại chứng khoán của công ty chứng khoán” (Khoản 2 Điều 8 về “quyền hoạt động ngân hàng”)
Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã không bao quát được các trưòng hợp theo quy định của pháp luật ngân hàng và trên thực tế lâu nay là ngoài trưòng hợp ký quỹ ba bên, thì đang thừa nhận quan hệ ký quỹ chỉ có hai bên. Những vấn đề bất cập về việc ký quỹ này cũng đã được Hội đồng thẩm định dự thảo Bộ luật Dân sự tại Bộ Tư pháp kiến nghị, nhưng đã không được xử lý.

Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của bên ký quỹ và bên nhận ký quỹ

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch đảm bảo, cụ thể về quyền và nghĩa vụ của bên ký quỹ, bên nhận ký quỹ và bên tổ chức tín dụng (nơi ký quỹ) trong hợp đồng ký quỹ như sau:

Một là, tổ chức tín dụng có nghĩa vụ: thanh toán theo yêu cầu của bên nhận ký quỹ trong phạm vi giá trị tài sản ký quỹ, sau khi trừ chi phí dịch vụ ký quỹ; hoàn trả tài sản ký quỹ còn lại cho bên ký quỹ sau khi trừ chi phí dịch vụ ký quỹ và sô' tiền đã thanh toán theo yêu cầu của bên nhận ký quỹ khi chấm dứt ký quỹ (Điều 35)

Hai là, tổ chức tín dụng có quyền: yêu cầu bên nhện ký quỹ thực hiện đúng thủ tục dể được thanh toán, bồi thường thiệt hại; được hưởng chi phí dịch vụ ký qu. (Điều 36)

Bà là, bên ký quỹ có nghĩa vụ: thực hiện ký quỹ tại tổ chức tín dụng mà bên nhận ký quỹ chỉ định hoặc chấp nhận; nộp đủ tài sản ký quỹ theo đúng thỏa thuận với bên nhận ký quỹ; thỏa thuận vối tổ chức tín dụng về điều kiện thanh toán theo đúng cam kết với bên nhận ký quỹ;(Điều 37)

Bốn là, bên ký quỹ có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng hoàn trả tài sản ký quỹ sau khi trừ chi phí dịch vụ ký quỹ và sô' tiền đã thanh toán theo yêu cầu của bên nhận ký quỹ khi chấm dứt ký quỹ; (Điều 38)

Năm là, bên nhận ký quỹ có nghĩa vụ thực hiện theo đúng thủ tục khi yêu cầu tổ chức tín dụng thanh toán; (Điều 39)

Sáu là, bên nhận ký quỹ có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng thanh toán đầy đủ, đúng hạn (Điều 40)

Theo quy định của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP có thể hiểu, tổ chức tính dụng chỉ mở tài khoản và thanh toán theo yêu cầu của bên nhận ký quỹ. Như vậy, có thể dẫn đến tình huống, chỉ đảm bảo quyền lợi cho bên nhận ký quỹ, mà không bảo đảm quyền lợi cho bên ký quỹ, vì tổ chức tín dụng chỉ thực hiện theo yêu cầu của bên nhận ký quỹ.

Vì vậy, các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận khác, chẳng hạn mở tài khoản và thanh toán theo lệnh của một trong ba bên như sau: (i) Bên tổ chức tín dụng có quyền và nghĩa vụ tự động trích tiền từ tài khoản để thanh toán, bồi thường thiệt hại cho Bên nhận ký quỹ khi phát sinh một hoặc trong cả ba trường hợp sau đây: (1) là theo yêu cầu tại văn bản thỏa thuận của bên ký quỹ và bên nhận ký quỹ; (2) là theo văn bản yêu cầu của bên ký quỹ và (3) là theo văn bản yêu cầu của bên nhận ký quỹ. Trường hợp thứ nhất thì dễ dẫn đến bế tắc nếu như hai bên không thông nhất được với nhau. Hai trường hợp còn lại thì bảo đảm quyền lợi cho bên này nhưng lại không bảo đảm quyền lợi cho bên kia. Vì vậy, các bên có thể thỏa thuận tổ chức tín dụng sẽ thanh toán theo yêu cầu của bên ký quỹ và hoặc bên nhận ký quỹ, nếu như trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của tổ chức tín dụng, mà bên được thông báo không có văn bản phản đối. Trường hợp một trong các bên phản đối, thì vụ việc có tranh chấp, nên tổ chức tín dụng sẽ chỉ thanh toán khi bên ký quỹ và bên nhận ký quỹ đã giải quyết xong tranh chấp.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật:1900 6198, E-mail:info@everest.org.vn.